Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa ; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến :
- Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
- Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
Các "đạo sĩ" là những nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
Để thấy được nét độc đáo của đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của người do thái : họ cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên ơn cứu độ là độc quyền của họ.
Thánh Phaolô thì không nghĩ như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một "dân ngoại", ngài tiết lộ cho họ biết một "mầu nhiệm", đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở thành "đồng một thân thể" với nhau và với Đức Giêsu Kitô, hơn thế nữa họ trở nên "đồng thừa tự" để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô và "đồng thông phần" với lời hứa cứu độ của Ngài.
Chúa Giêsu là Ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. "Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người".
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng :
- Hãy đưa cao Tin Mừng như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
- Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Chúa Giêsu nói : "Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói : "Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú trên bầu trời".
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin :
a/ Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình : có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi : mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh : Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên đường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa : "Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?"
Chúa nói : "Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó".
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi : "Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?"
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : "Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu".
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười : "Hừ, kẻ vô thần".
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay : "Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác".
Chúa Giêsu đồng ý : "Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát".
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng : "Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế".
Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng dẫn muôn dân đến gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Chúa là Vua lãnh đạo muôn dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người ngoại giáo đầu tiên đến thờ lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong Hội Thánh / biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
2- Chúa là Vua công bình chính trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế / chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được Chúa thương xót đỡ nâng.
3- Chúa đến làm ánh sáng chiếu soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang tìm Chúa / qua những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức Kitô soi sáng và hướng dẫn / để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
4- Mỗi tín hữu phải là một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / phục vụ khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sai chúng con mang sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho đời sống thường ngày của chúng con thể hiện một cách trung thực tình yêu bao la của Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Đấng Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
- Đáp ca : Đấng Messia đến để thực thi ý Thiên Chúa.
- Tin Mừng : Bắt đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả giới thiệu : "Chính Ngài là Con Thiên Chúa."
Từ hôm nay bắt đầu mùa thường niên : Phụng vụ muốn dẫn chúng ta từng bước đồng hành với Chúa Giêsu. Việc đầu tiên là phải biết Đấng mà mình đồng hành là ai.
Xin Chúa cho chúng ta biết Ngài, yêu mến Ngài và gắn bó đi theo Ngài trọn cuộc hành trình dương thế của chúng ta.
Tv này bày tỏ tâm tình của người tín hữu đối với Thiên Chúa : cậy trông nơi Thiên Chúa, hân hoan hát mừng ca tụng Ngài, và nhất là luôn thực thi thánh ý của Ngài.
Không ai ngoài Chúa Giêsu có những tâm tình hoàn hảo ấy.
Theo bố cục của Tin Mừng thứ tư, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu xuất hiện trước dân chúng. Vì dân chúng chưa biết Đức Giêsu, nên Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài, bằng hai kiểu nói :
- Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa" : Trong lễ nghi Đền tội của Do thái giáo, tội nhân đem một con chiên lên Đền thờ, úp tay mình xuống con chiên tỏ ý trút hết tội mình lên nó ; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên. Nó chịu chết để đền tội thay cho tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa. Ngay từ buổi đầu gặp Chúa Giêsu, Gioan Tẩy giả đã biết Ngài sẽ chịu chết để chuộc tội cho nhân loại, nên ông giới thiệu "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian".
- Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa" : Nhờ ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong biến cố làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả còn được biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Thực ra, trong lịch sử, các vua Israel cũng xưng mình là con của Thiên Chúa. Nhưng đó chỉ là một cách nói, ngụ ý họ được Thiên Chúa nhận làm con nuôi, nghĩa tử. Riêng đối với Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài là con ruột của Thiên Chúa và cũng chính vì thế cho nên Đức Giêsu sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
* Từ Chúa nhựt II đến Chúa nhựt VIII, bài đọc II đều trích từ thư 1 Côrintô. (Xin hãy đọc bài giới thiệu tổng quát về Thư 1 Côrintô ngay sau bài này)
Côrintô là một thành phố cảng với những nét đặc trưng là : dân cư hỗn tạp (nhiều sắc dân khắp nơi đến làm ăn), đời sống kinh tế và trí thức tương đối khá, nhưng không đoàn kết, xã hội có nhiều tệ đoan. Chính dân Côrintô đã đuổi Phaolô ra khỏi thành phố này.
Khi ở Êphêxô, Phaolô nghe nhiều tin tức không tốt về giáo đoàn này, nên ông viết bức thư này cho họ nhằm củng cố một số điểm giáo lý và sửa sai một số tệ nạn.
Đoạn này chỉ là những lời chào đầu thư Thánh Phaolô gởi đến các tín hữu Côrintô. Tuy vậy nó cũng xác định rõ tư cách của người viết thư và những người nhận thư :
- Người viết thư (Phaolô) là kẻ được Thiên Chúa kêu gọi làm tông đồ của Đức Giêsu Kitô.
- Những người nhận thư (tín hữu Côrintô) là những kẻ được kêu gọi nên thánh và được thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô.
Khi phải làm một chuyến hành trình dài, người ta cần có bạn đồng hành, để có bạn đường mà chia vui xẻ buồn, nói chuyện với nhau, và giúp đỡ nhau. Hai môn đệ hành trình Emmau nhờ đi chung với nhau nên đã san sẻ cho nhau nỗi buồn nặng trĩu sau những biến cố đau thương xảy ra tại Giêrusalem. Họ lại có được một bạn đồng hành nữa là Đức Giêsu phục sinh. Chính Người Bạn đồng hành này đã xóa tan mọi sầu lo của họ và làm cho niềm tin của họ sống lại.
Đời người trên dương thế là một cuộc hành trình dài thăm thẳm, không biết bao giờ mới xong, cũng không chắc sẽ đi đến đích hay không. Vậy mà có nhiều người cứ mãi độc hành : một mình tìm đường, một mình đi, một mình xoay trở trước những khó khăn… Thật là phiêu lưu !
Mùa thường niên của năm Phụng vụ cũng là một cuộc hành trình, nhưng không phải độc hành, mà là đồng hành với Chúa Giêsu : chúng ta cùng với Ngài đi qua những chặng đường từ Nadarét đến Galilê để tới Giêrusalem ; từ gian khổ đến vinh quang ; từ chết đến sống lại. Có Ngài cùng đi với chúng ta, chúng ta không sợ lạc đường. Cùng đi với Ngài, cho dù nhiều lúc gặp khó khăn, chắc chắn chúng ta sẽ tới đích. Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta nghĩa là Ngài sẽ vui khi chúng ta vui, Ngài sẽ buồn khi chúng ta buồn ; chúng ta đồng hành với Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta sẽ được vui niềm vui của Ngài và buồn với nỗi buồn của Ngài. Đời ta không cô độc, buồn tẻ…
Tuy chỉ là "mùa thường niên" không có những lễ trọng, nhưng nếu chúng ta sống mùa này như một người đồng hành với Chúa, cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ rất có ý nghĩa.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu với hai nét tương phản nhau : Ngài là Người Con yêu quý của Thiên Chúa cao sang, và Ngài là Người Tôi Tớ khiêm tốn thấp hèn.
Thực ra hai nét trên không đối chọi nhau mà làm nổi bật nhau và soi sáng cho nhau : Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cao sang do cách Ngài sống như một Người Tôi Tớ ; và Ngài là Người Tôi Tớ tuyệt hảo bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa cao sang.
Nhìn Chúa Giêsu, chúng ta rút ra được một triết lý sống : sống cao thượng trong hoàn cảnh tầm thường ; và sống hoàn cảnh tầm thường với tâm hồn cao thượng.
Cùng sống với Chúa Giêsu qua những biến cố mỗi tuần trong Mùa thường niên này, chúng ta có thể thực hiện được triết lý sống tuyệt vời ấy.
Thời Cựu Ước, trong ngày lễ Đền tội, người do thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó Tư Tế đặt tay trên đầu con dê, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Khi Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian", phải chăng Thánh Gioan cũng có ý rằng Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi chúng ta nên từ nay loài người không còn tội gì nữa ? Đơn giản và dễ dàng thế sao ?
Quả thực Đức Giêsu đã gánh lấy tội trần gian. Việc này có nghĩa là nhờ Ngài mà tội lỗi chúng ta được tha thứ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không phải làm gì cả.
Cần phân biệt rõ giữa tội lỗi và thân phận tội lỗi. Đức Giêsu gánh lấy và tha thứ tội lỗi chúng ta, như con chiên đã mang tội lỗi dân do thái vào sa mạc. Nhưng thân phận tội lỗi của chúng ta vẫn còn. Và Đức Giêsu muốn giúp chúng ta cải thiện thân phận ấy, dĩ nhiên là với sự hợp tác của chúng ta.
- Ngài giúp chúng ta thế nào ? Bằng cách đến với chúng ta, sống gần chúng ta, gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta hạt giống sự tốt lành và thánh thiện của Ngài.
- Chúng ta hợp tác thế nào ? Bằng cách tiếp nhận Ngài, sống với Ngài và để cho những hạt giống ấy lớn lên trong lòng mình.
Sự tha thứ của Chúa và bí tích Giải tội không phải là một thứ phù phép, mà là một trợ lực, một hạt giống.
Ngày xưa một vì vua bảo một ông quan : "Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người tốt". Ông quan này tính tình hung dữ, gian dối và không có bạn. Sau một thời gian đi tìm, ông trở về triều, tâu : "Thần đã đi khắp nơi, gặp hết mọi người. Nhưng chẳng tìm được người nào tốt cả. Ai cũng hung dữ, gian dối và không có bạn".
Nhà vua sai một quan khác : "Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người xấu". Ông này có lòng nhân từ, quảng đại và được mọi người thương mến. Sau một thời gian đi tìm, ông cũng trở về triều và tâu : "Hạ thần không thể chu toàn sứ mạng mà Bệ Hạ giao phó. Hạ thần đã gặp nhiều người gian lận, trộm cắp, tham lam… Nhưng chẳng có người nào thực sự xấu cả. Dù họ đã làm những điều ấy, nhưng trong thâm tâm ai cũng tốt"
Câu chuyện trên muốn nói rằng ta có khuynh hướng nhìn người khác không theo lòng họ mà theo lòng ta.
Thánh Gioan Tẩy giả thì không thế. Nếu như mọi người thì Gioan sẽ coi thường Đức Giêsu, bởi Ngài đến sau ông ; chẳng những thế ông còn coi Ngài là đối thủ của ông, bởi Ngài đang lấn dần ảnh hưởng của ông. Nhưng Gioan đã nghe theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần nên đã hiểu đúng về Đức Giêsu và đã nhiệt tình giới thiệu Ngài cho mọi người : "Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi vì Ngài cao trọng hơn tôi".
Trong thư gởi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô định nghĩa tín hữu là "những người được kêu gọi nên thánh".
Nhưng "thánh" là gì ? Theo thần học, chỉ có một mình Thiên Chúa là "thánh" (Kinh Sáng Danh : "Chỉ có Chúa là Đấng Thánh"). Theo Thánh Kinh, những ai và những gì thuộc về Thiên Chúa cũng được gọi là "thánh", chẳng hạn Đền thánh, Luật thánh, thánh nhân… ; việc dâng hiến một người hoặc một vật cho Chúa được gọi là thánh hiến.
Vậy tín hữu là những người được kêu gọi nên thánh có nghĩa là tín hữu được mời gọi ngày càng thuộc về Chúa hơn, ngày càng giống Chúa hơn.
Nhưng làm thế nào để được như vậy ? Cách tốt nhất là thường xuyên ở bên Chúa, nhìn vào Chúa và noi gương Chúa. Đó là điều mà phụng vụ các ngày chúa nhựt quanh năm muốn giúp chúng ta.
Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người là Đức Giêsu Kitô nhập thế làm người, chịu chết trên Thập giá để xóa tội lỗi trần gian. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Chúa đã đặt Hội Thánh làm dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh luôn trung thành với sứ mạng của mình.
2- Cánh đồng truyền giáo này nay thật bát ngát bao la / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phấn dân Chúa / ý thức được trách nhiệm rao giảng Tin Mừng của mình / và dùng chính đời sống theo Tám mối phúc thật / để giới thiệu Chúa cho những ai chưa nhận biết Người.
3- Sống an bình và hạnh phúc / là ước mơ tha thiết của mỗi người đang hiện diện trên trái đất này / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hôm nay được hòa bình và thịnh vượng / để điều mà môi người chân thành ước mơ / có thể sớm trở thành hiện thực.
4- Như Thánh Gioan tẩy giả / mỗi kitô hữu đều có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu rằng / giới thiệu Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ hết lòng / là cách tốt nhất để giúp người khác nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Chúa vì biết bao ơn lành Chúa đã thương ban cho chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con chỉ tin tưởng cậy trông và phó thác cuộc đời chúng con trong bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa mà thôi. Chúng con cầu xin…
- Trước kinh Lạy Cha : Chúa Giêsu là Con duy nhất của Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã thương chia sẻ quyền làm con ấy cho chúng ta nữa. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
- Trước Rước lễ : Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Ngày xưa Thánh Gioan Tẩy giả giới thiệu Đức Giêsu thế nào, thì hôm nay Giáo Hội cũng giới thiệu Đức Giêsu cho chúng ta như thế : "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…"
Trong Thánh Lễ này, anh chị em đã biết Chúa Giêsu là ai, đã được cảm nghiệm tình yêu thương của Ngài. Lễ đã xong, giờ đây anh chị em hãy đồng hành với Ngài trên những bước đường của cuộc sống.
1. Thành phố Côrintô đã bị một viên tướng Rôma tên là L. Mumium phá hủy vào năm 146 trước công nguyên. Một thế kỷ sau nó được xây dựng lại bởi lệnh hoàng đế Jules César và trở thành một thuộc địa của đế quốc Rôma. Chẳng bao lâu sau nó thành thủ phủ của tỉnh Achaie của đế quốc.
2. Côrintô cũng là một hải cảng lớn với một nền thương mại phồn thịnh. Vì nằm trên tuyến đường nối hai miền Đông Tây, nên việc giao thông cũng tấp nập. Dân số thời ấy khoảng 600 ngàn, trong số đó 2/3 là nô lệ. Về tín ngưỡng, dân Côrintô thờ nhiều thần. Luân lý rất suy đồi, nạn dâm ô tràn lan (x. Rm 1,26-32).
3. Phaolô đến Côrintô lần đầu tiên trong chuyến du hành truyền giáo thứ hai. Ông đã lưu lại đây 18 tháng từ mùa đông năm 50 đến mùa hè năm 52. Ban đầu ông cũng hành nghề dệt lều và rao giảng trong hội đường do thái vào những ngày hưu lễ. Khi có Sila và Timôtêô đến tiếp thì ông hoàn toàn lo rao giảng. Nhiều người đã tin theo và Phaolô lập được một giáo đoàn mà đa số là người lương trở lại, phần đông thuộc giới hạ lưu nghèo khổ. Những tín hữu này rất hăng say sống đạo nhưng đầu óc còn thấm nhiễm tâm thức lương dân. Sau đó dân Côrintô đã đuổi Phaolô đi. Sau khi ông ra đi ít lâu, có một nhà trí thức do thái ở Alexandria tên là Apollo đến nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân Côrintô và thu được rất nhiều kết quả (x 1Cr 1,26-28 11,21-22). Sau đó lại có thêm Thánh Phêrô đến nữa.
Năm 56, Phaolô đang ở Êphêxô thì được nhiều tin tức không tốt đẹp về giáo đoàn Côrintô : nạn bè phái, thói kiện cáo nhau trước tòa án lương dân, tội dâm ô v.v. Ngoài ra, nhiều tín hữu cũng có những thắc mắc về lương tâm và phụng vụ. Phaolô đã gởi Timôtêô đến đấy để dò la tình hình. Sau khi Timôtêô trở về báo cáo thì Phaolô viết bức thư này để sửa dạy những thói xấu và giải đáp những thắc mắc của tín hữu Côrintô.
- Thư này rất thực tế, cho ta thấy rõ bề mặt và bề trái của giáo đoàn : không phải cái gì cũng tốt đẹp êm xuôi, nhưng nhiều vấn đề nội bộ rất phức tạp, nhiều khi rất đau lòng. Nó cũng cho thấy những uẩn khúc trong tâm hồn của người chịu trách nhiệm về giáo đoàn : ưu tư, dằn vật, khổ đau nhưng trong hoàn cảnh nào cũng chan chứa tình thương.
- Nhờ thực tế như thế, thư này tương đối dễ hiểu. Mặc dù đề cập đến những vấn đề riêng tư của một giáo đoàn, nhưng qua đó chúng ta cũng rút ra được nhiều tư tưởng có giá trị chung cho mọi nơi và mọi thời.
- Bài đọc 1 : lời tiên tri của Isaia "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống lầm than trong vùng bóng tối nay được thấy ánh sáng bừng lên chiếu rọi"
- Đáp ca : "Chúa là nguồn ánh sáng, là Đấng cứu độ tôi, tôi sợ gì ai nữa".
- Tin Mừng : Đức Giêsu thực hiện lời tiên tri của Isaia. Ngài đến miền Galilê, một miền có rất đông lương dân, bắt đầu rao giảng rằng "Hãy sám hối, vì triều đại Thiên Chúa đã đến gần". Ngài cũng bắt đầu tuyển chọn môn đệ để cùng Ngài đi loan truyền tin vui ấy.
Minh họa
- Mille images 54 A
- "Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng…" (Mt 4,17)
Các kitô hữu đầu tiên đã cảm thấy rất hạnh phúc vì được gia nhập gia đình Giáo Hội. Mỗi ngày Chúa nhựt, họ họp nhau lại trong tâm tình kính mến Chúa và yêu thương nhau. Gương đoàn kết yêu thương của họ đã thu hút thêm rất nhiều người xin gia nhập Giáo Hội.
Hôm nay, chúng ta cũng họp nhau lại như cộng đoàn kitô hữu đầu tiên ấy. Nhưng có lẽ chúng ta không cảm thấy hạnh phúc bằng họ, vì chúng ta không mến Chúa bằng họ, không thương nhau bằng họ. Xin Đức Giêsu, Đấng đã tập họp chúng ta, ban thêm tình yêu trong lòng chúng ta.
Đặc biệt tuần này là tuần lễ Giáo Hội cầu nguyện cho sự hợp nhất các kitô hữu. Chúng ta tha thiết nài xin Chúa cho những người cùng tin một Chúa Kitô biết đoàn kết yêu thương nhau hơn.
Bối cảnh lịch sử : năm 721, đế quốc Assyria chiếm miền Bắc xứ Palestina (vương quốc Israel, về sau được gọi là miền Galilê, trong đoạn Tin Mừng này nó được gọi là "đất Dabulon và Néptali"). Assyria bắt thành phần ưu tú của xứ này đi lưu đày và đem nhiều dân ngoại từ các xứ khác đến lập cư ở xứ này, vì thế Galilê lại được gọi là vùng đất của lương dân, là vùng đất tối tăm.
Nhưng ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng sẽ tới ngày Ánh sáng sẽ bừng lên ở miền đất đó, và đám dân lầm than trong bóng tối ấy sẽ được ánh sáng chiếu rọi.
Ý chính của Tv này là ánh sáng hy vọng loé lên từ cảnh khốn cùng : cho dù khốn khổ có nặng nề đến đâu, thử thách có khắc nghiệt thế nào, thì vẫn có một điều chắc chắn, đó là : Thiên Chúa vẫn là ánh sáng và ơn cứu độ. Đó chính là niềm hy vọng của mọi tín hữu khiến họ luôn đứng vững : "Chúa là nguồn ánh sáng và Đấng cứu độ tôi. Tôi sợ gì ai nữa".
Đoạn Tin Mừng này đánh dấu kết thúc sứ mạng của Gioan Tẩy giả và bắt đầu sứ mạng của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng tại Galilê, một miền đất vốn được coi là tối tăm, là đất của lương dân. Chính tại miền đất này, Đức Giêsu tuyên bố "Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần". Như thế, Đức Giêsu thực hiện lời tiên tri của Isaia.
Đức Giêsu cũng kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên (Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan) để cùng Ngài rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Sau khi mở đầu bức thư bằng những lời chào hỏi (đoạn được trích đọc Chúa nhựt trước), Phaolô đi ngay vào tệ nạn thứ nhất của tín hữu Côrintô là sự chia rẽ nhau.
- Tín hữu Côrintô đã chia ra thành 4 nhóm, mỗi nhóm dựa vào một thừa sai và chống lại các nhóm kia : nhóm theo Phaolô, nhóm theo Apollô, nhóm theo Phêrô (Kêpha) và nhóm theo Đức Kitô.
- Phaolô lập luận để cho thấy việc chia bè phái như thế là sai : tất cả đều thuộc về Đức Kitô, mà Đức Kitô không thể bị chia năm xẻ bảy như thế. Và Phaolô kêu gọi họ hãy hòa thuận, một lòng một ý với nhau.
1. Cuộc phiêu lưu vĩ đại từ một vùng đất bị khinh khi
Đối với dân thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ. Đối với người mộ đạo sùng tín, miền Bắc thật đáng ngờ vực. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày…
Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia, Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ….
Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi logic.
Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là "đường, sự thật và sự sống".
Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ… Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người.
Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa… (F. Delectos, được trích bởi Fiches dominicales, trang 169-170).
- tối tăm về sự thật : cho dù có nhiều phương tiện truyền thông, Nhưng khó mà biết sự thật.
- tối tăm về tương giao : ngay cả những người sống cạnh nhau cũng chưa hiểu nhau.
- tối tăm do tội lỗi, do mù quáng, do cố chấp hẹp hòi…
- tối tăm do hoàn cảnh bên ngoài nhiều bất công, gian dối, thù hận…
Trong khung cảnh tối tăm ấy, chúng ta hãy nhớ những lời của Đức Giêsu : "Ta là ánh sáng thế gian" (Ga 9,12) ; "Hãy tin vào ánh sáng và các ngươi sẽ trở thành con cái sự sáng" (Ga 12,36).
Nhưng tin vào ánh sáng là gì ? Là tin vào mặc khải của Đức Giêsu, cũng như 4 môn đệ đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ đã nghe tiếng gọi của Ngài, đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài sẽ giải đáp cho tất cả những băn khoăn thắc mắc của chúng ta ; Ngài sẽ cho ta biết ý nghĩa cuộc đời ta là gì ; Ngài cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha trên trời hết lòng yêu thương chúng ta ; Ngài sẽ dạy cho chúng ta biết sống yêu thương như thế nào ; và cuối cùng Ngài sẽ dẫn chúng ta về nhà Cha trên trời.
Chúa nhựt hôm nay nằm trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô hữu. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay cung cấp nhiều chất liệu cho chúng ta suy nghĩ về sự hiệp nhất này :
- Bài đọc 1 : Đức Giêsu là ánh sáng bừng lên giữa thế gian. Ngài muốn soi sáng tất cả mọi người, kể cả các anh em ly khai, những người lạc giáo, những người lương và những người vô thần…
- Bài đọc 2 : Đức Giêsu đã chịu chết vì mọi người và cho mọi người. Nếu các kitô hữu chia rẽ nhau thì chẳng khác gì Đức Giêsu bị chia năm xẻ bảy sao !
- Bài đáp ca : "Điều tôi tìm kiếm khấng xin, là luôn được ở trong nhà Chúa tôi". Tại sao những anh em cùng tin Đức Kitô lại không sống hòa thuận với nhau trong cùng một ngôi nhà của Chúa ?
- Bài Tin Mừng : "Hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần". Tất cả mọi người, dù là công giáo hay tin lành, chính thống v.v. đều phải sám hối về những tội lỗi của mình để có thể được vào Nước Chúa.
4. Chuyện minh họa : "Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng"
a/ Làm phép nhà
Một bà kia mời Linh mục đến làm phép nhà mình. Bà hướng dẫn Cha đi rảy nước thánh mọi nơi trong nhà : phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, phòng ăn… Cha thấy chỗ nào cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Cho nên chỗ nào Cha cũng rảy nước thánh, kể cả cầu thang. Ngay cả hai con mèo đang nằm ngủ trên một bậc thang cũng được Cha rảy nước thánh, khiến nó giật mình thức dậy kêu meo meo và chạy vội đi nơi khác, và mọi người hiện diện phải phì cười.
Sau khi làm phép xong mọi nơi ở nhà trên thì đến hầm kho. Bà chủ nhà chần chừ không muốn dẫn Cha xuống. Vị Linh mục hỏi :
- Sao thế ?
- Dưới đó dơ lắm.
- Càng dơ thì càng phải làm phép chứ.
- Nhưng nó lộn xộn lắm.
- Càng lộn xộn càng phải làm phép.
- Và nó tối tăm lắm.
- Cho nên phải mang ánh sáng đến cho nó.
Lời bàn : Con người chúng ta cũng giống như một gian nhà. Những nơi mình muốn che dấu nhất chính là những nơi tối tăm xấu xa nhất. Nhưng đó cũng là những nơi cần mang ánh sáng tới nhất.
b/ Mang ánh sáng đến chỗ tối tăm
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên : "Cứ để yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi :
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên ?
- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không ?
- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy :
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Đức Giêsu là ánh sáng trần gian. Ai theo Người sẽ không phải đi trong bòng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Với quyết tâm sống như con cái sự sáng, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Đức Kitô đã dùng các tông đồ làm nền móng xây dựng Hội Thánh / và đã làm cho Hội Thánh lan rộng khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Giám mục / Linh mục / phó tế / biết chu toàn sứ mạng Chúa trao cho / là nhiệt thành và khôn ngoan lãnh đạo dân Chúa.
2. Từ hai ngàn năm nay / có biết bao kitô hữu đã nhiệt tình đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô / hăng say rao giảng Tin Mừng cứu độ / xả thân phục vụ những kẻ bần cùng đói rách / cũng như những người bất hạnh nhất trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em ấy / luôn giữ được niềm phấn khởi lúc ban đầu.
3. Chúa Giêsu kêu gọi / "Anh em phải sám hối vì Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu hiểu rằng / sám hối là việc phải làm thường xuyên suốt cả cuộc đời / nếu muốn được hiệp thông với Thiên Chúa / vì mang lấy thân phận con cháu Ađam / con người rất dễ phạm tội mà khó làm việc lành.
4. Thánh Phaolô viết / "Anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói / và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em / nhưng hãy sống hòa thuận / một lòng một ý với nhau" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn cố gắng thực hiện trọn vẹn lời khuyên tha thiết của Thánh Phaolô tông đồ.
CT : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã gọi chúng con làm môn đệ Chúa. Xin ban ơn giúp chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin…
- Kinh Tiền Tụng : Nên dùng Kinh Tiền Tụng Chúa nhựt thường niên I, vì có nói tới Giáo Hội, Nước Trời ở trần gian.
- Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta hãy đọc kinh Lạy Cha trong tâm tình hiệp nhất với Đức Giêsu và với tất cả những kitô hữu khác cùng một niềm tin vào Ngài.
Anh chị em đã được ánh sáng Đức Giêsu soi sáng, anh chị em hãy cố gắng sống như con cái sự sáng, và cùng Đức Giêsu xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian này.