(VTC News) - Ông cưỡi sấu như cưỡi ngựa chướng, rồi ông trói nghiến 4 chân nó lại. Con sấu khổng lồ chỉ còn biến quằn quại, giãy đạp.
Trong cuộc trò chuyện với tôi giữa đại ngàn U Minh Hạ, ông Nguyễn Văn Thế, Giám đốc Vườn quốc gia U Minh Hạ cho biết, rắn hổ mây khổng lồ mang tính huyền thoại, nhưng sự tồn tại của hổ là có thật. Tuy nhiên, con hổ cuối cùng đã bị giết hại cách nay hơn nửa thế kỷ. Người giết hại con hổ là ông Tám Thợ Săn, người mà nhắc đến cả huyện Trần Văn Thời cũng như khắp vùng U Minh Hạ đều biết.
Để tìm hiểu về hổ, loài thú dữ từng nổi danh miền Tây, với câu ca “…dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um”, tôi đã tìm về xã Khánh Bình Tây (huyện Trần Văn Thời, Cà Mau) tìm gặp thợ săn Tám Ảnh.
Con đường hoang vắng, âm u, hun hút xuyên qua đại ngàn U Minh Hạ cả giờ phóng xe máy, ra tới tận ven biển, sát Đất Mũi mới đến xã Khánh Bình Tây. Hỏi đường tới nhà ông Tám Thợ Săn, quả thực, từ người già đến đứa con nít đều biết. Ông Tám Ảnh quá nổi tiếng, bởi từng là người giết hổ dữ.
Nhà ông Tám Ảnh ở một doi đất, mà đến cả chục lần vòng ngang, rẽ dọc, qua vô số cây cầu lắt léo mới tới. Thế nhưng, đến nơi, tôi mới biết, ông Tám Ảnh đã nằm dưới ba tấc đất. Mộ phần ông đã được xây dựng khang trang.
Người con trai út của ông Tám Ảnh, là anh Tạ Văn Bình, sinh năm 1975, dẫn tôi ra phần mộ. Trên bia mộ khắc rõ: Tạ Văn Ảnh, sinh năm 1924, từ trần 22-07-2011, nhằm 22-06 Tân Mão, hưởng thọ 87 tuổi.
Anh Bình bảo, nhà anh đông anh chị em, mỗi người một nghề, sống tứ phương trời, dù không giàu có, nhưng cũng cố gắng đóng góp, xây dựng mộ cha to tát. Theo anh, dù cha anh không giàu có, không chức tước gì, nhưng ở khắp vùng U Minh Hạ này, nổi tiếng chỉ sau Bác Ba Phi ở bên kia con rạch, lại là người đầu tiên khai khẩn vùng đất này, nên con cháu cố gắng xây mộ ông khang trang, để mọi người tiện thăm viếng.
Theo anh Bình, ba anh quê ở Năm Căn (Ngọc Hiển), là con thứ 5 trong gia đình có 9 anh em. Nhà ông có bác Tư, còn gọi là ông Tài Sứ, từng nổi danh, giàu có nhất vùng Năm Căn.
Lớn lên, ông Tạ Văn Ảnh đi săn sang vùng rừng U Minh Hạ, thuộc huyện Trần Văn Thời ngày nay, rồi lấy vợ ở vùng đất này. Vợ ông là bà Lý Thị Vương, là con thứ 8, nên người dân mới gọi ông là Tám Ảnh. Vì ông là thợ săn quá nổi tiếng, lại giết vô số hổ, cá sấu, nên mới gọi ông là Tám Thợ Săn.
Những chiếc bẫy, thừng, lao, cung, nỏ chuyên dụng, dùng để săn các loại thú, ông Tám Ảnh vẫn giữ đến lúc già, treo trên tường nhà làm đồ kỷ niệm. Tuy nhiên, khi chết đi, con cháu đã mang về quê cha đất tổ ở Năm Căn để trưng bày ở nhà thờ tổ.
Nói rồi, anh Bình dẫn tôi ra con kênh trước nhà. Con kênh thẳng đuột, nước chảy liu riu, có tên Tám Thước. Anh bảo:
- Xưa kia, vùng đất này chỉ là rừng tràm, rừng đước, dưới sông sấu lội, trên bờ cọp bước thung thăng. Ba mình cùng bác Năm Nghĩa Hổ về đây khai phá. Hai ổng đã đào con kinh này làm đường giao thông đấy.
- Nghe kể, hai ổng đào mất 10 năm mới xong con kinh này. Hồi đào nó chỉ rộng 5 mét thôi. Giờ ghe, thuyền chạy nhiều, bờ lở, mới rộng thành gấp đôi. Nói như thế để biết rằng, ba mình là người khai phá vùng đất này. Sau này, người dân nơi khác đến ở, mới đông vui như giờ.
Chuyện ông Tám Ảnh giết hổ, anh Bình không được tận mắt, vì khi đó, anh chưa ra đời. Lúc đó, mới chỉ có anh thứ 3 là Tạ Văn Ân chào đời. Tuy nhiên, những người lớn tuổi trong ấp đều biết và đều kể lại cho con cháu nghe, thành ra ba anh mới nổi tiếng khắp vùng.
Theo anh Bình, ba anh có tài săn thú bẩm sinh. Người truyền nghề săn cho ông chính là ông nội của anh Bình, tức cha ông Tám Ảnh, là cụ Tạ Văn Hiến.
Cụ Hiến cũng nổi tiếng với tài bắt sấu, diệt hổ. Ông Tám cũng truyền nghề cho anh Bình, nhưng bao ngày tháng theo cha đi săn, anh chỉ bẫy được 2 con lợn rừng. Anh không có tài săn thú, mà rừng thì mỗi ngày cạn kiệt thú, nên anh không theo nghề cha, mà theo thuyền đánh cá ra biển lớn
Nhưng, trong ký ức của anh Bình, trong những chuyến theo cha vào rừng, thì không lần nào ông Tám Ảnh vào rừng mà không bắt được thú.
Anh Bình kể:
- Mỗi lần đi săn, ba mình đều mổ một con gà, cúng bái tổ tiên, rồi xem giò gà. Chỉ xem giò gà, ba biết có săn được thú hay không, thậm chí được nhiều hay ít. Mình không rõ xem giò gà thế nào, nhưng ba bảo móng giò gà chụm lại thì tức là tổ tiên sẽ cho săn được thú, còn móng nó tõe ra thì tốt nhứt là không nên vào rừng làm gì cho mệt.
Mặc dù là thợ săn giỏi, nhưng ông Tám Ảnh không săn bắt kiểu tận diệt. Ông chỉ chọn lọc những con thú lớn mới bắt. Bắt được thú, ông mổ chia cho các gia đình trong ấp, chứ không bán kiếm lời.
- “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Cha mình thường nói như vậy. Tuy ổng săn thú kiếm sống, nhưng ổng không tham lam sát hại các loài thú đâu – anh Bình lý giải.
Theo lời anh Bình, số lượng cá sấu ông Tám Ảnh bắt được nhiều không kể xiết. Tuy nhiên, ông chỉ bắt cá sấu theo đề nghị của người dân.
Ngày đó, sấu dưới sông, rạch, rừng tràm nhiều vô số kể. Người dân không ăn thịt cá sấu, cũng không biết dùng da cá sấu. Khi con người khai phá rừng tràm, rừng đước ngập nước, thì loài sấu là kẻ thù của con người, chứ không phải động vật quý hiếm như ngày nay.
Sấu thường xuyên mò lên bờ bắt lợn, gà của dân, thậm chí ăn thịt cả con người. Nơi nào có sấu, thì người không dám ở. Người không thể sống chung với sấu được.
Khi nhận được lời đề nghị của người dân, ông Tám Ảnh vác lao lên đường. Ở chỗ nào xuất hiện sấu lớn, làm người dân hoang mang, không làm ăn gì được, thì ông Tám Ảnh có mặt. Ông lội ì oạp dưới nước vừa để làm mồi dụ nó, vừa đi tìm ổ sấu. Sấu thường làm ổ ở rừng dớn. Ông phá tan hoang hang ổ của nó. Ông xua đuổi nó đi nơi khác, giành đất cho người.
Tuy nhiên, bọn cá sấu khi đó vừa đông, vừa hung dữ, chúng không sợ con người. Những con sấu nhỏ, nhút nhát thì bò ra sông, hoặc chui sâu vào trong rừng, nhưng phần lớn chúng đều hung dữ, quyết sống mái với kẻ phá hang ổ của nó.
Ông Tám Ảnh không cần làm bẫy, cũng chẳng dùng súng. Ông nhảy xuống sông, rạch, lấy thân mình làm mồi. Sấu điên cuồng lồng lộn vì kẻ mạo phạm lãnh địa, liền lao vào đớp, ông dùng lao phóng thẳng vào gáy. Một nhát phóng lao là hạ thủ con sấu nặng cả tạ.
Không chỉ thể hiện tài năng giết sấu, thỉnh thoảng ông Tám Ảnh còn làm xiếc với cá sấu hoang dã cho người dân xem. Những trận chiến đấu của thợ săn Tám Ảnh với cá sấu cuốn hút người dân khắp vùng.
Hàng trăm người dân như khán giả đứng trên bờ, riêng ông Tám Ảnh cởi trần trùng trục với dây thừng khoác trên cổ lội ra kênh, vùng ngập nước tóm cá sấu. Ông Tám Ảnh có thể liều mạng lội vào giữa đàn cá sấu cả chục con để tóm con lớn nhất lôi lên bờ.
Những con sấu nhỏ, cỡ vài chục ký, ông lấy thân mình nhử mồi. Khi sấu lao vào đớp, ông dùng đôi tay rắn chắc, cứng như thép, nhanh như chớp của mình banh miệng nó ra. Sau khi mọi người mãn nhãn, ông mới buộc miệng nó lại, tóm đuôi, lôi sấu lên bờ.
Với những con sấu to thì ông thận trọng hơn. Ông Tám Ảnh trèo lên ngọn tràm, thả con vịt bị trói. Vịt kêu cạp cạp gọi sấu đến. Con sấu vừa đớp mồi, thì từ trên cây, thợ săn Tám Ảnh lao xuống cưỡi lên lưng sấu. Ông quàng dây thừng đã thắt thòng lọng vào miệng sấu thít lại. Ông cưỡi sấu như cưỡi ngựa chướng, rồi ông trói nghiến 4 chân nó lại. Con sấu khổng lồ chỉ còn biến quằn quại, giãy đạp.
Ông Tám Ảnh không giết hại những con sấu này. Ông cùng người dân trong ấp khiêng nó ra sông Cái Lớn thả, để nó đi tìm nơi khác sinh sống, trả đất cho người dân.
Vì khả năng săn thú tài ba, mang hào khí ngút trời, nên ông Tám Ảnh trở thành huyền thoại sống của vùng đất U Minh Hạ. (Phạm Ngọc Dương)
Thiên nhiên hoang dã là thi vị của bài thơ cuộc sống con người; chẳng thế mà người ta thường ham thưởng lãm thiên nhiên hoang dã, ham bắt chước thiên nhiên hoang dã, mê nghe kể về thiên nhiên hoang dã qua chuyện các loài thú dữ, thích xem những bộ phim về thiên nhiên hoang dã như Tarzan, Chú bé rừng xanh hay phim về loài thú nào đó trên kênh truyền hình Discorevy, thích bày ra thú chơi cây cảnh, nghệ thuật bonsai, bể cá, hòn non bộ, thú nhồi bông, tranh vẽ cảnh thiên nhiên v.v… Dù cho rằng vì trong bản tính con người vốn sẵn chứa thiên nhiên hoang dã, nhưng cũng nên đặt thêm câu hỏi: “Thiên nhiên hoang dã có đặc tính gì mà hút hồn con người đến thế?” Trả lời: Thưa thiên nhiên hoang dã có đặc tính “luôn biểu hiện, ít hoặc nhiều, khi thì hình bóng này, lúc thì hình bóng khác… những đặc tính của Thiên Chúa. Mỗi loại thiên nhiên hoang dã biểu hiện cách khác nhau một số hình bóng và bản tính của Thiên Chúa, nào là sự chân thật, nào là sự thiện hảo, nào là sự đẹp đẽ duyên dáng, sự mềm mại tinh tế, nào là sức mạnh, nào là sự hùng vĩ, nào là sự mênh mông choáng ngợp v.v…
Từ đó suy ra, Giáo hội đặt ra Thánh ca Phụng vụ, nếu được học hỏi kỹ càng đến nơi đến chốn, sẽ thấy trong đó cũng có thi vị để tôn thờ Chúa. Thi vị của Thánh ca Phụng vụ là gì? Trả lời: là tính tập thể (hiệp nhau cầu nguyện) như Lời Chúa dạy: “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20).
Tính tập thể biểu lộ sự đồng lòng, tình thương yêu, sự hòa thuận giữa con cái mà không cha mẹ nào không hài lòng. Đúng vậy! Thánh ca Phụng vụ hát cả cộng đoàn, tức mọi người hiện diện trong buổi cử hành phụng vụ đều hát chung qua cách hát đối đáp (các hình thể Thánh ca Phụng vụ đều buộc người hát phải hát đối đáp).
Thi vị của Thánh ca Phụng vụ là sự đồng lòng hát ca. Cho nên nếu đi tìm nghệ thuật thanh nhạc hay trình diễn hoặc sự điêu luyện cá nhân, tài nghệ diễn xuất của riêng ai đó… đều không đúng. Điều này thánh ca bình dân tô giáo đã dẫn chúng ta đi sai từ lâu nay.